Xin
trích giải một số Sắc phong của các đời Vua đất Việt phong cho Vĩnh
Công Đại Vương - tức Đức Vua Cha Bát Hải :
1
- Hoàng Triều Vĩnh Hựu nhị niên , trọng Đông nguyệt , sơ nhật .
(Niên
hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2, đời
vua Lê Ý Tông, ngày
01/ 11 âm /1726 )
Sắc
: Gia phong: Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại Vương _Thượng đẳng Quốc tế
(Quốc là quốc gia, tế là Tế lễ, được tổ chức Tế lễ theo Nghi thức dành cho những bậc Thần linh được tôn
trọng bậc nhất Quốc gia )
Phóng
chỉ ban hồi dữ cấp tiền tứ bách quán (Truyền Chỉ dụ về tận nơi, cùng số
tiền được Triều đình ban cấp là 100 quan). Hứa Đào Động trang ngưỡng Thần
hiệu, cập hồi trùng tu miếu điện, dĩ phụng chi lưu truyền hương hoả,
dữ quốc tế vĩnh thời huân công hỹ. (Hẹn cho Đào Động trang tổ chức
lễ đón Thần hiệu , tiến hành trùng tu miếu điện thờ phụng và lưu truyền
hương hoả , để cả nước về tế lễ huân công của Thần đến mãi mãi ) .
Hàn
lâm Viện Đông các Đại học sỹ Nguyễn Bỉnh - Phụng soạn
Bát
phẩm Lại bộ - thần :
Nguyễn
Hiền - Phụng sao .
2
- Chương Thánh tôn hiệu đệ nhị niên , trọng xuân , cát nhật .
(Năm
Chương Thánh Gia Khánh thứ hai, đời Vua Lý Thánh Tông, ngày tốt , tiết xuân
tháng 2 âm lịch , năm 1060 )
Sơn
Nam Hạ trấn, Phụ Phượng quận, Đào Động trang
Cổ
điện phụng sự: Tam Kỳ linh ứng Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình .
Thị
thượng tôn cổ Thần hộ Quốc tý dân , thập phương ngưỡng vọng
(
Là vị Thần từ đời cổ được tôn trọng bậc nhất , đã có công Hộ quốc , che chở cho
dân , mà mọi miền đất Việt đều ngưỡng vọng )
Vạn
cổ chí kim thế truyền linh ứng , đa Triều tái phong mỹ tự
(
Từ cổ đến nay, được đời truyền tụng là linh ứng, nhiều Triều đại đã có Sắc
gia phong với những lời ca ngợi đẹp đẽ )
Tứ
kim gia phong ( Nay ban chiếu gia phong là )
Thượng
đẳng Tôn Thần Hộ quốc tí dân , vạn đại linh ứng
(
Vị Thần được tôn trọng bậc nhất , đã có công hộ Quốc , che chở cho dân , vạn
năm linh ứng )
Chuẩn
phụng sự chính lệ ( cho phép phụng sự , tế lễ theo chính lệ )
Trợ
Thần tồn linh bảo ngã lê dân chí vĩnh
.
Khâm thử !
(
Để Thần tiếp tục linh ứng bảo vệ cho dân ta mãi mãi . Y lệnh
!)
3 - Thiên Đức tôn hiệu đệ ngũ niên , trung thu, vọng nhật
(
Năm Thiên Đức thứ hai, đời Vua Lý Nam đế, ngày
15 tháng 8 âm năm 548 )
Lạc
Việt quốc, Hùng Triều đệ thập bát diệp , sắc phong thuỷ Thần phát tích Hoa Đào
trang , sơn Nam Hạ trấn .
(Thời
vua Hùng đời thứ 18 , nước Lạc Việt, đã sắc phong cho vị Thuỷ Thần phát tích
tại Hoa Đào trang, Trấn Sơn Nam Hạ )
Sắc
phong (Vua Hùng sắc phong là )
Đệ
nhất lương thần Vĩnh Công hộ quốc tí dân
(
Vị Thần có đức lớn bậc nhất là Vĩnh Công, đã có công hộ quốc, che chở cho dân
ta)
Hoá
Thần
Bính Dần niên, bát nguyệt, nhị thập ngũ nhật, sở tại Hoa Đào trang,
Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Niệm đại công sinh thời hùng lược
quảng đức phù Quốc an dân. Gia phong: Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại
Vương, thượng đẳng quốc tế. Phóng chỉ ban hồi dữ . Hứa Hoa Đào trang
ngưỡng
Thần hiệu, trùng tu miếu điện, dĩ cẩn phụng sự chi lưu truyền hương hoả
vạn
thế, đắc Thần sở tiếp linh ứng phù hộ dân Việt bất hoại .
Khâm
dĩ !
(Vị
thuỷ
Thần hoá Thần ngày 25 tháng tám năm Bính Dần, tịch tại Hoa Đào trang,
Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Nhớ đến đại công khi sinh thời của
Vĩnh Công hùng lược quảng đức, hộ quốc an dân, Vua Hùng gia phong : Trấn
Tây
an Tam kỳ linh ứng Đại Vương, cho tổ chức tế lễ theo quốc lễ . Vua Hùng
phóng chỉ ban, hẹn cho Hoa Đào trang tổ chức đón rước Thần hiệu, trùng
tu
miếu điện, phụng sự Thần nghiêm cẩn và lưu truyền hương hoả vạn đời, để
Vĩnh
công mãi linh ứng phù hộ cho dân )
Thư
lại Lễ bộ Lý triều Chương thánh Gia Khánh nhị niên phụng soạn (
15tháng 8 năm 548) . Tú tài Giáo học Đinh Đăng Quát cẩn sao. Cấm
cung Bát Hải động Đìnn linh từ, chính nguyệt, sơ thập nhật, Quý Dậu
niên ( chép lại ngày mồng 10 tháng giêng năm 1933) .
4
- Khải Định cửu niên , thất nguyệt , nhị thập ngũ nhật .( ngày
25/7/1924 )
Sắc
! Thái Bình tỉnh , Phụ Dực huyện , Vọng lỗ tổng , Đào Động xã . Phụng sự
Trấn tây an nam , tam kỳ linh ứng tôn thần .
Nẫm
trứ linh ứng , tứ kim phi thừa. Cảnh mệnh miễn niệm thần hưu, trứ phong
vi dực bảo Trung hưng linh phù chi thần, chuẩn kỳ phụng sự, thứ cơ thần
kỳ, tương hữu bảo ngã lê dân .
Khâm
tai !...
Câu thành ngữ dân gian : Tháng 8 giỗ Cha , tháng 3 giỗ Mẹ chính là để chỉ Hội tháng 8 ở Đền Đồng Bằng và Hội tháng 3 ở Đền Mẫu Phủ Dày .
Đền
đồng Bằng là nơi "đi trình về tạ" của các bản Hội tín ngưỡng trong
toàn quốc từ xa xưa .
Vì
sao Đền Đồng Bằng thờ Vĩnh công Đại Vương lại có tên là Đền Đức Vua, hay còn
gọi là Đền Đức Vua Bát Hải ? Tên này có từ bao giờ ?
Theo các cụ thì : dựa vào truyền thuyết Vĩnh công chính là Thái Tử Giao Long ( như đã thuật ở phần trên, ngài là con vợ thứ của Lạc Long Quân ) . Vì thế khi Hùng Vương 18 cáo chung, Vua An Dương Vương Thục Phán lên ngôi, tuy cũng là dân Bách Việt nhưng thuộc dòng ngoại tộc , trong khi Vĩnh công đã hoá thần nhưng cực kỳ linh hiển phù trợ cho dân đất Việt, vì thế mà dân tôn sùng gọi ngài là Đức Vua .
Lại có thuyết rằng : Sau khi đánh thắng giặc phương Bắc trên 8 cửa biển, Vua Hùng giao cho Vĩnh công cai quản vùng duyên hải Lạc Việt - Văn Lang , đặt tên là Tây Đô, vì thế dân gian gọi ngài là Đức Vua là từ ý này ... Đã có 1 thời gian , chúng tôi trăn trở rằng : vùng duyên hải ở phía đông Văn Lang - Lạc Việt , sao lại gọi là Tây Đô ? Mãi sau mới hiểu ra là so với địa thế Bách Việt ( dưới nước Hoa Hạ cổ ), thì Lạc Việt ở hướng Tây. Chứng cứ còn lại là vùng đất của Bách Việt ở sát ngay trên nước ta bây giờ, gọi là tỉnh Quảng Tây (TQ), cho nên ngày ấy vùng duyên hải Lạc Việt có tên Tây Đô vì thế .
Lại có thuyết: tên Đền Đức Vua có từ thời Trần, vì sau khi Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn qua đời, bài vị của ngài được thờ tại Đền này. Mà theo thứ bậc nội tộc nhà trần, thì Hưng Đạo Vương vốn là đích tôn giòng trưởng, tuy không làm vua nhưng sự nghiệp bao trùm cả 1 giai đoạn oanh liệt của triều Trần, vì thế dân tôn ngài là Đức Vua sau khi ngài tạ thế .
Nhưng
dù gọi tên Đền Đức Vua ở thời điểm nào, thì hiện nay, chúng ta đều ghi
nhận Đền Đồng Bằng thờ những "Trọng Nhân " mà sự nghiệp chi phối cả 1
thời trong lịch sử đất Việt .
Đôi
lời về truyền thuyết Vĩnh Công: Chắc cũng giống như nhiều Dân tộc khác
trên Thế Giới, Dân tộc Việt cổ vì ngưỡng vọng quá mà Thần thánh hoá
những Anh hùng trong Lịch sử của mình .
Như
sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ , thuỷ tổ của Bách Việt , thì có truyền thuyết
đẻ ra cái bọc trăm trứng ...
Rồi sự tích Sơn Tinh , sự tích Thánh Gióng ...
Ngay
đến đời Trần , dân đồn rằng Hưng Đạo Vương là 1 vị La Hán xuống trần , Phạm Ngũ
Lão là Vũ Khúc Tinh quân giáng thế , Yết Kiêu nhờ nuốt được lông trâu thần mà
có tài lặn giỏi ...
Ngay
đến TK 20 này , khi Bác Hồ lãnh đạo giành chính quyền thành công năm 1945, lúc
ấy dân đồn Cụ là người đặc biệt, mắt có 2 con ngươi ...Khi Bác mất, dân bảo
Bác là Ngọc Phật giáng trần ...
Đây
là những nhân vật có thật trong lịch sử, chưa xa hiện tại là mấy, nhưng ta đã
chứng kiến dân gian vì quá ngưỡng vọng mà đã Thần Thánh hoá lên như vậy
... Nếu chú ý hơn, ta sẽ thấy: cũng như nhiều Thần tích khác ở đất Đào
Động, dân giữ nguyên sự nghiệp, chiến tích có thực của các Vĩ nhân, nhưng
lại Thần Thánh hoá nguồn gốc xuất thân và cái chết của họ (hoá Thần). Vì có
lẽ quan niệm dân dã xưa cho rằng: chỉ có những người xuất thân siêu phàm
thì mới làm được những sự nghiệp vĩ đại như thế... Dân thương tiếc
không muốn nghĩ là họ đã mất , muốn họ sống mãi , bằng cách nói họ hoá
Thần, về Trời, về biển ... Với quan niệm như thế, ta sẽ đánh giá công
bằng hơn về sự tích Vĩnh Công, một người anh hùng cứu nước sống cách ta những
khoảng 2000 năm, thì bụi thời gian và lòng tín ngưỡng càng khúc xạ thăng hoa
lên lung linh đến mức nào ?! ( đến bây giờ còn có nhiều người vẫn cho rằng sự
tích Vĩnh Công là hoàn toàn không có thực !) ...Cách nhìn định kiến như thế ,
có thể sẽ gạt bỏ đi cả 1 sự nghiệp vĩ đại của 1 người anh hùng cứu
nước thời cổ , mà dân vì ngưỡng vọng quá , dẫn đến Thần Thánh hoá lên
chăng ?
Đền Đồng Bằng hiện nay, còn thờ cả Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, từ năm 1300, sau khi Hưng Đạo Vương qua đời, bài vị của Ngài được thờ cạnh bài vị Vĩnh công tại Đền Đồng Bằng .
Từ
tư liệu mà các nhà sử học đã nghiên cứu , kết hợp với truyền thuyết
dân gian đều chỉ ra rằng: Thời trần , vùng đất A Côi, Phụ Phượng (huyện Quỳnh
Phụ bây giờ ) là thái ấp của An Sinh Vương Trần Liễu, phụ thân Trần Hưng Đạo.
Trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông, đất Đào Động (Hoa Đào
trang cổ xưa , và cũng chính là đất An Lễ bây giờ ) là nơi
hội quân của nhà Trần, chuẩn bị cho đại chiến Bạch Đằng... Người con gái nuôi
của Hưng Đạo Vương tên là Trần Thị Thái (hay Hoa Đào Công chúa, sau gả cho Phạm
Ngũ Lão, chính là người Đào Động ) .
Để
tạo thế liên hoàn thủy bộ cho căn cứ Đào Động phù hợp với việc điều chuyển
và tập hợp những đạo quân lớn tại Đào Động, Trần Hưng Đạo cho đào 1
con sông nối thẳng từ khúc quanh phía bắc sông Vĩnh cổ thông xuống biển ,
đặt tên là sông Tú giang, sau gọi là sông Cô...
Lại
cho khơi một đoạn sông thẳng , nối 2 đầu khúc lượn phía nam sông Vĩnh cổ
( gần Đền Đồng Bằng) để tạo ra một tuyến sông thẳng từ của Đại Lẫm ( kho
lương thực lớn) xuôi qua trước cửa Đền ra biển ... Từ những kênh, sông mới
ấy tạo ra một hệ thống thủy đạo thông lợi chưa từng có .
Ngài
còn cho mở rộng và cơi cao tuyến đê sông Đào Động ( sông Vĩnh cổ ) , tạo
ra một " đại lộ" chạy dọc Đào Động trang , vừa để bảo vệ cư dân
và mùa màng khỏi nước lụt tràn , vừa để cơ động quân thuận lợi trong căn cứ ...
(Theo ghi chép truyền đời của các cụ nhà Nho địa phương.T.)
Bà
Trần Thị Thái chọn khu đầm lầy rộng hàng dặm, dài tới 3 dặm, chạy
dọc phía đông nam đất Đào Động (song song với sông Đào Động, tức sông
Vĩnh cổ), đầm lầy này có địa thế lúp xúp lau sậy, giống bãi sông Bạch
Đằng ... Bà khoanh vùng, cho canh phòng cẩn mật, để làm nơi luyện thuỷ
quân ...
Tương
truyền: đội quân Thánh Dực, 1 đội quân thiện chiến thuỷ trận của nhà Trần,
được tuyển chọn chủ yếu từ trai tráng Đào Động và trấn Sơn Nam ...Địa
danh Đầm Bà xuất hiện từ đó và tồn tại cho đến ngày nay , với những cái
tên gợi cho ta về hoạt động thuyền bè như : Đống Bà Đà ( nơi đóng
mới và hạ thuỷ tàu thuyền ) , đống Moi ( một động thái chèo thuyền ) , đống Dầm
( 1 kiểu bơi chèo nhỏ )...
Đền Quan đệ Tam, Đền Quan Thượng ở phía bắc đất Đào Động ( gần đống Đà ) tương truyền là Đại bản doanh của danh tướng Yết Kiêu . Ngày ngày tướng sĩ đến Đầm Bà tập luyện thuỷ chiến. Bà Trần Thị Thái chọn doi đất cạnh thôn Đông nhô ra đầm trũng, làm nơi để dân mang hoa quả, quà bánh đến uý lạo quân sĩ tập luyện , sau đó , từ doi đất này mọc lên nhiều bưởi , tên làng Bưởi còn tồn tại đến ngày nay ( tức thôn Giới Phúc ).
Trên
vùng chợ Đồng Bằng hiện tại, thời Trần gọi là Thôn Đông, có các di tích:
Đình Đông (Đình tháng 8) thờ Thành Hoàng Đường Đô Giám ( một tuỳ tướng của Vĩnh
công xưa ) , có Quán Trải ( lớn đủ gác bảo quản 6 Trải lớn của 6 Giáp ,
để thi bơi trong Hội tháng 8 ) , Miếu Cảnh Am , Miếu Thu Phan ...Là nơi đóng
trại binh trung quân Trần triều .
Dưới
Thôn Đông là Thôn Đoài ( giữa đất An Lễ bây giờ ) có Đền quan đệ Nhị , chùa Tây
, tĩnh quan đệ Tứ , tĩnh quan đệ Lục ( miếu giáp Nhị ) . Thời Trần , miếu
giáp Nhị là nơi tuyển quân Thánh Dực .
Tiếp
dưới Thôn Đoài là Thôn Lãng, có Đình Lãng thờ Thành Hoàng " Ba Lãng hãn
Vệ Đại vương" ( một trong 5 vị Thành Hoàng đã có công giúp Hai Bà Trưng
diệt quân Tô Định ), thời Trần, đình Lãng là bản doanh của Danh tướng Phò mã
Nguyễn chế Nghĩa .
Tiếp
đến Thôn Dất , cách Đền Đức Vua 600 mét , là Đình Dất , tương truyền thờ
thân Mẫu của Vĩnh công xưa , đời Trần đình Dất là Bản doanh của Điện Tiền Đô uý
Phạm Ngũ Lão . Đền quan đệ Bát cổ , là nơi đóng quân của danh tướng Dã tượng và
thớt Voi chiến lừng danh của Trần Hưng Đạo . Con voi chiến được điều về Đào
Động cùng với đội voi , ngựa làm nhiệm vụ tải lương , chuẩn bị cho
đại chiến Bạch Đằng .
Đường tải lương từ kho tập kết làng Đợi ( xã Đông Hải ) chở lương ra kho lương A Sào ( nghĩa là lúa gạo , hiện nay là Đền A Sào , xã An Thái , gần sông Hoá ). Tại Đào Động , đến nay vẫn còn 1 cánh đồng mang tên Đồng Tượng ( tượng là Voi) , tại làng Đợi ( Đông Hải ) vẫn còn hình con Voi đắp bằng vữa để ghi lại sự kiện này . Đền Công Đồng thờ Quan lớn Điều Thất từ thời Hùng vương , đời Trần tương truyền là dinh quân của Danh tướng Trần Quốc Tảng , con trai thứ 3 của Trần Hưng Đạo .
Trần
Quốc Tảng là người văn võ song toàn. Có lẽ đây chính là thời điểm Xảy ra
giai thoại lịch sử: Trần Quốc Tảng khuyên cha nhân được phong là Quốc Công
Tiết Chế nắm giữ trọn binh quyền, thì hãy nghĩ đến lời ông nội ( Trần
Liễu ), lấy lại ngôi vua cho dòng trưởng ... Hưng Đạo Vương thể hiện lòng
trung bằng cách quát chém Trần Quốc Tảng, các quan xin mãi , Hưng Đạo
Vương mới tha và đuổi ra trấn giữ Cảng Vân Đồn ( Cửa Ông, Quảng Ninh bây giờ)
. Khi đoàn chiến thuyền của quân Nguyên xâm lược vừa tới Vân Đồn, đã bị quân
của Trần Quốc Tảng (cùng Trần Khánh Dư) chặn đánh, đốt cháy phần lớn lương
thảo ( thuyền lương giặc cháy dạt vào bờ chồng chất , và nơi ấy có tên là bãi
Cháy cho đến ngày nay ), quân Nguyên bị thiệt hại đáng kể về lương thảo ,
hoang mang về tâm lý trước khi tiến vào cửa Bạch Đằng. Trần Quốc
Tảng tử trận, được lập Đền thờ tại cửa Ông (danh từ Ông chính là cách gọi tôn
trọng Trần Quốc Tảng ). Trở lại đất Đào Động thời điểm trước trận Bạch
Đằng , Tĩnh quan Thượng cạnh Đền Đức Vua, tương truyền là nơi Trần Hưng Đạo
tạm trú, ngày ngày ngài lên Đền thờ Đức Vua để dâng hương, tĩnh toạ,
nghiền ngẫm trận đồ ...
Xa
xa 1 chút về phía chính bắc đền Đồng Bằng , là đống Thần Đồng Hưng
nổi lên như 1 quả đồi trên thảm lúa , đống Thần thờ 1 trong 5 vị Thành hoàng đã
giúp hai Bà Trưng đánh thắng quân Tô Định xưa , thời Trần ngày ấy , vùng đất
bãi phẳng kề cạnh và đống Thần Đồng Hưng là nơi tập trận của quân sĩ , để
sau sẵn sàng tiêu diệt quân Nguyên Mông , khi gặp tình huống chúng bị
chặn đường rút ra biển bằng thuyền , phải tràn lên bờ sông Bạch Đằng ,
như ý đồ tác chiến của Hưng Đạo Vương ...Vùng bãi gần đống
Thần này , vẫn có tên là Đồng Ông cho đến bây giờ .
Trước
ngày tiến quân ra Bạch Đằng cự giặc , Trần Hưng Đạo làm lễ dâng hương tại Đền
Đức Vua, Đền quan lớn đệ Tam , lập Đàn cầu Bách Thần đất Việt phù trợ rồi ban
lệnh xuất quân ...
Khi
hành quân qua sông Hoá , thuộc xã An Thái bây giờ , chọn lúc nước triều xuống
để hàng chục vạn quân vượt sông , con voi chiến bị sa lầy , Hưng Đạo Vương đành
bỏ con voi trung thành đã cùng ông qua trăm trận mạc , đang chìm dần trong nước
triều cường , để kịp ra trận ... Tương truyền con voi nhìn theo chủ mà rống
thảm thiết , mắt nó chảy ra máu ...Hưng Đạo Vương rút gươm chỉ xuống dòng nước
mà thề rằng : " Nếu không thắng giặc , ta nguyện không trở về ..." .
Tượng
con voi chiến sau đó được tạc bằng đá, hiện thờ tại cửa
Đền A Sào .
Sau
chiến thắng Bạch Đằng , Hưng Đạo Vương về tế tạ tại Đền Đức Vua . Năm
Trùng Hưng thứ 4 ( 1288) , vua Trần Nhân Tông tái phong mỹ tự cho Vĩnh
Công, cho phép mở mang tu bổ đền phủ , tương truyền mở rộng đến cung đệ nhị bây
giờ .
Năm
1300 , khi Hưng Đạo Vương từ trần , bài vị của ông được lập và thờ cạnh
bài vị Vĩnh Công tại cung Cấm trong Đền Đồng Bằng .
Cũng
sau chiến thắng quân Nguyên , Đào Hoa Công chúa Trần Thị Thái cho
dựng chùa Đông ( gần đình Đông ) , hướng ra Đầm Bà , để cầu siêu thoát cho vong
linh các binh sĩ đã tử trận ở Bạch Đằng .
Dân
làng Bưởi sau này dựng Miếu thờ Bà ngay sát mép nước Đầm Bà . Tại Quảng Yên -
Quảng Ninh , tương truyền trước trận Bạch Đằng , Bà Trần Thị thái
đã ra thị sát thuỷ triều , cùng cha nuôi là Hưng đạo Vương lựa địa thế
cắm cọc chặn đường rút của giặc ... Đền thờ Đào Hoa Công chúa được lập ngay bên
bờ sông Bạch Đằng ( ngôi Đền còn tồn tại đến nay , ngay đầu lối ra
phà Rừng từ phía Quảng Yên ) ...
Theo
tạp văn cổ còn lưu lại ở địa phương , vào đời Lê, năm 1440 đời Lê Thái Tông ,
Danh hào Nguyễn Trãi cùng vợ là Thị Lộ từ Côn sơn về thăm cảnh và lễ tại
Đền Đồng Bằng . Tiết xuân , năm Quang Thuận thứ 2 ( 1461) Vua Lê Thánh Tông
kinh lý qua Đào Động , đến Đền dâng hương và có thơ vịnh cảnh Đền (
bài thơ rất tiếc đã thất lạc )...
Thời
nhà Nguyễn , năm Đinh Sửu ( 1817) Đại công thần Nguyễn Văn Thành là tổng trấn
Bắc kỳ , một người có ân với dân , về tế tại đền .
Năm
1924 , vua Khải Định tái sắc phong cho Vĩnh công , cho phép mở mang Đền
phủ , tương truyền đền được mở rộng đến cung đệ tam , cung đệ tứ , xây toà cổng
tam quan tồn tại đến bây giờ ...
Dân
gian
còn có truyền thuyết rằng :" Tam kỳ linh ứng" Trong hiệu của Đức
Vua Bát Hải , không chỉ là ý Ngài phát tích ở ngã ba sông Vĩnh như
thường nghĩ, mà còn là 3 lần Ngài hiển linh đánh giặc cứu nước Việt :
Lần
1 - Là Vĩnh công Đại Vương
Bát Hải Động Đình
Lần
2 - Linh hiển trong hình tượng Vua Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng .
Lần
3 - Linh hiển hóa thân thành Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn 3 lần đánh thắng quân
Nguyên, và lần thắng oai hùng nhất là Đại thắng thủy chiến Bạch Đằng
giang .
Ngay
hình tượng quan đệ Tam, 1 vị tướng tài ba của Đức Vua Bát Hải, cũng là Vũ Khúc
tinh Quân hiển ứng ...
Đến
đời Trần , Ngài lại tiếp 1 lần hiển ứng trong hình tượng danh tướng Phạm Ngũ
Lão ...
Chưa xét về mặt Tâm linh , mà như
thế cũng đủ thấy dân ta ngưỡng vọng những người anh hùng cứu nước , Thần thánh
hóa họ lên ở những "bậc cao nhất" của sự tôn vinh giữa đời.
Theo Mantico
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét