Đạo
Mẫu ở nước ta hiện nay có khá nhiều người theo, nhưng đối với các nhà
nghiên cứu thì đạo Mẫu vẫn là một dấu hỏi lớn về nguồn gốc, tôn chỉ, quá
trình phát triển. Đạo Mẫu có phải là đạo mê tín?
Đạo
Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là
các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần không nhỏ trong hệ thống tín ngưỡng
dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam
Nguồn
gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vở. Có
người cho rằng nó có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các
thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái
niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được
mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian - những người phụ
nữ có thật nổi lên trong lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh.
Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ, và cuối cùng được
thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.
Các
vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần
thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi
chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nào để người
ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.
Trong
tín ngưỡng dân dã của người Việt Nam, việc tôn thờ Nữ thần, thờ Mẫu là
một hiện tượng khá phổ biến và có căn cỗi lịch sử và xã hội sâu xa.
Tuy đều là sự tôn sùng các thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ Nữ thần với thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu không hoàn toàn đồng nhất.
Tôn thờ Nữ Thần
Từ
rất lâu đời, ở nước ta Nữ Thần đã được nhân dân tôn vinh và thờ cúng.
Người xưa cũng đã từng tập hợp các vị tiên có nguồn gốc thuần Việt, thì
trong tổng số 27 vị, đã có 14 là Tiên nữ.
Trong truyền thuyết Nữ thần Mặt Trời và Nữ thần Mặt Trăng đã soi sáng và sởi ấm cho mặt đất, tạo lập nên vũ trụ.
Huyền
thoại về Bà Nữ Oa đội đá vá trời. Các nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp
Lôi, Pháp Phong, Pháp Điện tạo ra mây, gió, sấm chớp…
Sinh thành ra dân tộc Việt Nam có Mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng, nở thành 100 người con.
Các
bà Mẹ cũng là các vị thần sáng tạo ra văn hoá và các giá trị văn hoá,
là tổ của nhiều ngành nghề truyền thống như Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa…
Nhiều
Nữ thần là các danh tướng anh hùng ngoài trận mạc, là những nhân tài
xây dựng đất nước như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân…
Các
vị Nữ thần từ bao đời nay được nhân dân tôn làm Thánh, Thần, được triều
đình sắc phong thành các vị Thần, Thành Hoàng của nhiều làng.
Đạo
Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người
đi lễ tham gia. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà
chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Nghi lễ phổ biến nhất
là lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng). Trong nghi lễ này, người ta tin
rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này
được vời đến để nghe lời cầu nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ,
phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ
(bà đồng), đôi khi mới do nam giới đảm nhận (ông đồng).
Các
giá đồng (các điệu múa linh thiêng) là một phần quan trọng của nghi lễ.
Có 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá
các cô, ... Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn
(hay chầu văn). Hát văn là một thể loại hát nói (vừa hát vừa nói). Hát
văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói
rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho
người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người và nơi chốn ở
bên ngoài thế giới địa phương của họ.
Thờ Mẫu
Tục thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu có quan hệ mật thiết với tục thờ Nữ thần
Mẫu là Nữ thần nhưng không phải tất cả các nữ thần đều là Mẫu, mà chỉ có một số nữ thần được tôn vinh là Mẫu.
Danh
từ Mẫu là gốc Hán Việt, còn thuần Việt gọi là Mẹ. Nghĩa ban đầu, Mẫu
hay Mẹ đều để chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng
xưng của người con đối với người sinh ra mình.
Ngoài ý nghĩa xưng hô thông thường đó, từ Mẫu và Mẹ có ý nghĩa rộng rãi tôn vinh những bà Mẹ chung của mọi người.
Tín
ngưỡng thờ Mẫu chứa đựng những nhân tố về một hệ thống vũ trụ luận
nguyên sơ, thể hiện một ý thức nhân sinh, ý thức cội nguồn, dân tộc,
lòng yêu nước đã được thiêng liêng hoá mà Mẫu là biểu tượng cao nhất.
Đạo
Mẫu tiếp thu những ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng
có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.
Trong
quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta và một bộ phận quan trọng của nó
đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hoá, giữa đạo Phật và đạo Mẫu
có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau khá sâu sắc.
Điều
dễ nhận biết là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở nông thôn đều có
điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng “tiền Phật hậu Mẫu“, phía
trước thờ Phật, phía sau thờ Mẫu.
Tam Toà Thánh Mẫu
Chúng ta thấy trong những điện thờ Mẫu có một hệ thống được thờ như sau:
Trên
cao nhất của thượng điện là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.. Tuy vậy, ít nơi
thờ. Vì đúng lẽ chỉ có những vị tiên trên thượng giới mới được thờ
Thượng đế.
Tiếp đến là thờ Tam Toà Thánh Mẫu ( Mẫu Tam phủ, Mẫu tứ phủ)
Mẫu
là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất và hoá thân thành Tam vị, Tứ vị
cai quản các cõi các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu
Thoải, Mẫu Thượng Ngàn.
Thường chúng ta thấy Tam toà thánh mẫu trong các điện thờ:
Mẫu
Thượng Thiên hay còn gọi là Mẫu Cửu Trùng mặc áo đỏ, ngồi chính giữa.
Sau này một số điện thờ Mẫu, nơi chính giữa thờ Mẫu Liễu Hạnh.
Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, gió, sấm, chớp…
Mẫu
Liễu Hạnh xuất hiện vào khoảng đời hậu Lê, nhưng nhanh chóng trở thành
vị Thần chủ của Đạo Mẫu Việt Nam và được tôn vinh với tư cách là Mẫu
Thượng Thiên, được thờ ở vị trí trung tâm, mặc trang phục màu đỏ.
Thánh
Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay
làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày
nay thuộc tỉnh Nam Định) vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn
ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu
cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp
mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp
gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm
lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu
với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền Sòng
tỉnh Thanh Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan
trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.
Tại
làng Tây Hồ - Hà Nội có Phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh, dựng trên doi đất trông
ra Hồ Tây, , cảnh đẹp, gió lộng từ ba phía, ngoài ra còn có những đền
thờ nổi tiếng ở nhiều nơi như Phủ Giầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định, đền Sòng, Phố Cát- Thanh Hoá…
Mẫu Thượng Ngàn là hoá thân Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, ngồi bên trái, mặc áo xanh.
Các
đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở nhiều nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng
chính được nhiều người biết đến là ở Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ (
Lạng Sơn).
Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Suối Mỡ thờ Mỵ Nương Quế Hoa, con gái Vua Hùng.
Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Bắc Lệ thờ công chúa La Bình, con gái đức Thánh Tản và Ngọc Hoa.
Mẫu
Thoải (Mẫu Thuỷ) là vị Thánh trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng
dõi Long Vương, liên quan đến thuỷ tổ dân tộc Việt.ngồi bên phải, mặc
trang phục màu trắng.
Mẫu Địa là vị thánh trông coi đất đai, mặc áo màu vàng.
Ngũ vị Quan Lớn
Sau
hàng Mẫu là Ngũ Vị Quan Lớn, gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ.
Các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích màu sắc trang phục Thoải Phủ
màu trắng, Thiên Phủ màu đỏ, Nhạc Phủ màu xanh, Địa Phủ màu vàng.
Các vị Quan lờn đều có nguồn gốc là thiên thần, vâng mệnh trời xuống giúp dân lành.
Nhưng cũng có nơi gắn các vị Quan lớn với các Nhân thần, những vị tướng có công với nước.
-
Quan Đệ Nhất quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm
mưa làm gió, và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào
mầu đỏ.
- Quan
Đệ Nhị (Quan Giám Sát) ngày cúng của Đức Giám Sát là âm lịch mùng Ba
tháng Ba. Châu văn rằng: Quyền cai rừng núi Lâm Cung, lên rừng suống
biển tâu về Bát Hải Long Vương. Lúc đánh trận cho nhà vua theo chiếu
mệnh. Ông là vị Quan thanh tra tai ương, oan khuất trần gian, giám sát
các vị thần khác theo luật Thiên. Mặc bào màu xanh lá cây. Lúc lên giá
này, ông dùng khăn phủ diện để minh giám hoàn cảnh.
-
Quan Đệ Tam (Quan Tam Phủ) là con vua Bát Hải Long Vương, ra trận cầm
đối đao vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Ông là người nắm giữ sổ sinh
tử trần gian. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông pha trận
tiền.
- Quan
Đệ Tứ (Quan Khâm Sai) là một ông quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ông
có trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt.
Mặc bào mầu vàng.
-
Quan Đệ Ngũ (Quan Tuần Tranh) là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể
là tướng đi tuần ở Sông Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này,
ông cầm cái thanh long đao to như của cái ông Quan Công của thời Tam
Quốc. Quan Đệ Ngũ chuyên tróc quỷ trừ yêu ma.
Tứ Phủ Chầu Bà (四府十二位英靈公主)
Tứ Vị Thánh Bà hay Tứ Vị Chầu Bà được coi như hoá thân, phục vụ trực tiếp của Tứ Vị Thánh Mẫu
- Chầu Đệ Nhất (Thiên Phủ)
- Chầu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa
- Chầu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa
- Chầu Thác Bờ (Thoải Phủ & Nhạc Phủ) Có người hầu là giá thứ ba, tức là Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ
- Chầu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa
Đình
Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có
công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh
tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào
thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40)
- Chầu Năm (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Suối Lân Công Chúa
- Chầu Ngũ Phương Có người hầu giá này thay vao Chầu Năm, tức là Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương
- Chầu Lục (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa
- Chầu Bẩy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Tân La Công Chúa
- Chầu Tám (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn
Bà
họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh
Hưng Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà
nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ.
- Chầu Chín Cửu Tỉnh ở Bỉm Sơn Thanh Hoá
- Chầu Mười (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng
- Chầu Mười Một
- Chầu Bé (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa
Thập Vị Thủy Tế (十位八海龍兒皇子王爺)
Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi theo thứ tự từ Ông Hoàng đệ Nhất đến ông Hoàng Mười.
- Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Quận/Lê Lợi
- Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
- Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
- Ông Hoàng Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai
- Ông Hoàng Năm
- Ông Hoàng Sáu
- Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bảo Hà
- Ông Hoàng Bát (Nhạc Phủ). Danh hiệu:Ông Bát Quốc, là một ông quan gốc người Hán đóng quân ở Lào Cai
- Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Cờn Môn
- Ông Chín Thượng (Nhạc Phủ)
- Ông Hoàng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Nghệ An, có công chống giặc Thanh từ bên TQ
Một
số đền thờ có các ông Hoàng được nhiều người biết đến như : đền ông
Hoàng Bảy ỏ Bảo Hà, Ông Hoàng Mười ở Bến Thuỷ - Nghệ Tĩnh.
Tứ Phủ Tiên Cô(四府山莊神領聖姑)
Hàng
Cô được gọi từ Cô Đệ Nhất (cô cả ) đến Cô Thứ Mười Hai ( cô bé), đều là
các thị nữ của Thánh Mẫu.Các cô ăn mặc rất đẹp, áo các màu, thắt lưng
hồng, tóc cài hoa…
- Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)
- Cô Đệ Nhất Thượng Ngàn (Nhạc Phủ)
- Cô Đôi Thượng (Nhạc Phủ)
- Cô Đôi Cam Đường (Nhạc Phủ) quê cô ỏ Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai
- Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông & Cô Ba Tây Hồ
- Cô Tư (Địa Phủ)
- Cô năm Suối Lân (Nhạc Phủ)
- Cô sáu Sơn Trang (Nhạc Phủ)
- Cô bảy Tiên la (Nhạc Phủ)
- Cô Tám đồi chè (Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục
- Cô Chín Sòng Sơn (Thiên Phủ)
- Cô Chín Thượng (Nhạc Phủ)
- Cô Chín Thoải (Thoải Phủ)
- Cô Mười Đồng Mỏ (Nhạc Phủ)
- Cô Bé Đông Cuông (Nhạc Phủ)
- Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ)
- Cô Bé Thác Bờ (Thoải Phủ)
- Cô Bé Thoải (Thoải Phủ)
- Cô Bé Đen (Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc
Tứ Phủ Thánh Cậu
Các Cậu quận là những người chết trẻ hiên linh, họ là những phụ tá của các ông Hoàng.
- Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ)
- Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
- Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
- Cậu Hoàng Bé (Nhạc Phủ)
- Cậu Hoàng Tư Long thành (sắc phục màu vàng)
- Cậu Bé (sắc phục màu xanh)
a, Cậu Bé Đồi Ngang ( Cậu Hoàng Quận )
b, Cậu Bé Đồi Non
Ngoài
ra ở mỗi bản đền lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền ,
trong đó thường hay ngự đồng như: Cậu Bé Phủ Bóng, Cậu Bé Đông Cuông
....
Các
cậu về thường mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá, đầu vấn khăn, hai
bên tay thường có hoa cài, chân quấn xà cạp, đi giày thêu . Các cậu về
thường làm lễ tấu rồi đi hèo hoặc múa lân.
Tại
các điện thờ Mẫu ở hạ ban hoặc ngoài sân còn có sự hiện diện của các vị
Quan Ngũ Hổ hay ông Lốt (rắn). Trong quan niệm dân gian, thần Ngũ Hổ
cai quản núi rừng, là vị thần linh canh giữ các ngội đền.
Quan Ngũ Hổ (五方神虎威靈)
- Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (東方甲乙木德青虎威靈)
- Nam Phương Bính Đinh Hoả Đức Xích Hổ Thần Quan (南方丙丁火德赤虎威靈)
- Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (中央戊已土德黃虎威靈)
Tây Phương Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan (西方庚辛金德白虎威靈)
• Bắc Phương Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần Quan (北方壬癸水德黑虎威靈)
Còn Rắn Thần cai quản nơi sông nước.
Ông Lốt (兩位青蛇白蛇大神將軍)
- Thanh Xà Đại Tướng Quân
- Bạch Xà Đại Tướng Quân
Lễ trình đồng
Đệ
tử của Tứ Phủ sau khi đã được tôn lô nhang mà căn mạng vẫn còn quá nặng
thì phải ra đàn Tứ Phủ sơn trang để chính thức trở thành ghế cho các
Ngài( 38 vị = 38 giá đồng hầu các vị Thánh được tôn thờ trong Tứ Phủ)
thì mới hết bị Ngài hành. Đệ tử trong Tứ Phủ quan niệm rằng: sở dĩ gặp
những điều không may trong cuộc sống thường nhật là tại các Ngài đã chấm
đồng bắt lính mà không chịu ra hầu các Ngài nên bị hành, chỉ cần ra đàn
xong là khỏi..
Lễ
trình đồng này có mục đích trình diện con đồng với chư vị Mẫu, Mẹ, Vua,
Cha, với các ông Hoàng bà Chúa. Mở đàn để ra trình diện với 4 phủ và
sau lễ ấy mới được chính thức làm ghế đệm để các Ngài về phán bảo và làm
việc quan. Lễ trình đồng hiện nay phải chịu nhiều tốn kém do người ta
tự đua nhau: “Ghen vợ ghen chồng không bằng ghen đồng ghen bóng” .
Nguời
nghèo thì đàn mỏng lễ sơ, người giàu thì tổ chức trình đồng có đàn lễ
lên tới con số 20 - 30 triệu đồng VN. Vào những năm 60 một đàn lễ trình
đồng to nhất cũng chỉ tốn 50 ngàn đồng... Thông thường tín đồ chỉ đưa
tiền cho nhà đền (Thủ đền), nhà đền lo sắm lễ tất cả. Cuộc lễ tổ chức
trong 2 hoặc 3 ngày sau. Ngày đầu gọi là lễ mở Đàn hay lễ mở Phủ, ngày
thứ 2 có hoặc không, để cách khoảng chứ không có lễ nghi gì quan trọng,
và ngày cuối cùng là ngày tiễn Đàn sơn trang nên được gọi là: “Tiền tứ
phủ, hậu sơn trang”.Lễ này cần rất nhiều lễ vật như: Hoa quả bầy trên
khắp các ban thờ, thường dùng nhất là hoa huệ trắng. Đặc biệt ban thờ
trước giá hầu thường được cắm hoa hồng. Có khi người ta lấy tiền giấy
kết thành hình con bướm mắc vào cành huệ để các Ngài dùng những cành hoa
ấy phát lộc. Rất nhiều trái cây đủ loại được bày thành từng mâm. Trong
đó có một vài mâm đặc trưng mà buổi hầu đồng nào cũng phải có: Mâm quạt,
mâm lược và mâm gương soi để dâng cho giá cô Bơ phủ. Một mâm hoa quả
như: ớt, ổi, dứa, chuối, đu đủ..., gừng, chanh... gọi là lộc sơn trang
để dâng cô Bé Thượng Ngàn; một mâm kẹo bánh, đồ chơi trẻ con để dânh cho
giá Cậu; một mâm trứng, oản thịt luộc để dâng Ngũ hổ năm dinh; kẹo lạc
trà tàu thuốc lá mà đầu thuốc có phết một ít thuốc phiện để dâng giá ông
Hoàng Bảy.
Loại
lễ thứ hai là đồ mã. Bắt buộc phải có một đài sơn trang, lớn hay nhỏ
tùy theo ý muốn của người ra đàn. Đài sơn trang là một cái động nằm
trong khu rừng âm u, trong động có các nàng tiên nữ theo hầu bà chúa Sơn
Trang, có người gảy đàn, người múa hát... tất cả đều được làm bằng
giấy. Bốn hình nhân thế mạng lớn bằng hình người thật, mặc sắc phục khác
nhau: Xanh, đỏ, trắng, vàng tượng trưng cho bốn phủ. Mỗi hình nhân mang
theo một điệp sớ. một thuyền giấy( thoi), một hình người có 3 đầu, mình
rắn ( Lốt), một ngựa, một voi, và nhiều mũ, vàng thoi....
Loại lễ vật thứ 3 là một mâm sớ, 4 quyển sổ, 4 nghiên son, 4 thỏi mực, 4 bút lông. Mỗi sổ dành cho một phủ.
Trên
ban thờ hầu được thiết lập thành 4 phủ. Đó là 4 dãy lụa đỏ, xanh,
trắng, vàng trải dài trên bàn phủ xuống tận đất. Mỗi vuông lụa ngang
khoảng 7 đến 9 tấc, dài khoảng 2, 50m. Những vuông lụa đó phủ kín để che
dấu bên trong là 1 cái thau, 1 cái gáo múc nuớc để trên thau, 1 hũ nước
dán miệng kín bằng 1 tờ giấy cùng màu với phủ, một mâm gạo, một mâm
trứng, thuốc lá, trà tàu, một hộp trầu cau. tất cả đều mới và cùng màu
với phủ.
Ngoài cửa đề có bày 1 mâm gạo, trứng, muôi và cháo để cúng chúng sinh.
Khi
mọi lễ vật đã được chuẩn bị xong, cuộc lễ bắt đầu. Lễ thường được tiến
hành từ 10 giờ sáng. Người ra đàn phải tìm cho mình một Quan thày( Có
đức cao trọng vọng và có tiếng trong Tứ Phủ ) để hầu mở phủ. Người ra
đàn phải mang những y phục mà mình đã may để trình. Những y phục này chỉ
có giá trị khi đã dâng lên và được các Ngài “chứng” bằng cách điểm dấu
nhang lên trên đó.
Trong
khi bà đồng sửa soạn hầu mở phủ thì cung văn tấu nhạc và thầy cúng đọc
sớ và người ra đàn lễ bái trước tất cả các ban thờ, xong trở lại ngồi
chầu nơi bệ hầu để khấn vái chờ nghe các Ngài phán bảo.
Quan
thầy hầu trước là giá Tam tòa thánh mẫu. Rồi đến giá Quan. Gía này quan
trọng nhất vì chỉ có các quan mới có quyền mở phủ còn những giá khác
chỉ về chứng đàn mà thôi. Bởi vậy quan thầy hôm ấy băt buộc phải hầu giá
các quan, còn các giá Cô, cậu, ... gọi là hầu cho vui, muốn hầu hay
không là tùy.
Mỗi phủ có một quan đầu đồng và quan ở phủ nào thì mở phủ ấy. Thí dụ:
Quan
Bơ về mở phủ thứ 3, sắc trắng. Sau những nghi thức thường lệ “Quan” cầm
một bó nhang đốt cháy, tay trái cầm chéo khăn và “chống nạnh”, Quan dậm
chân hét một tiếng to, lúc ấy chiêng trống nổi lên dồn dập. Quan cầm bó
nhang, xoay xoay trước ban thờ và 4 hướng, tiến đến phía các phủ cũng
làm dấu điểm nhang. Đoạn ngồi xuống, nghe thầy cúng hoặc cung văn đọc
sớ, đọc xong dâng mâm sớ lên cho quan điểm nhang. Quan kiểm sổ bằng cách
chấm bút son vào sổ. Rồi đứng dậy tiến tới phủ của mình, Quan giở khăn
choàng phủ ra, hầu dâng xếp khăn lại đặt trở lên bàn thờ. Quan lấy vài
miếng trầu cau, một quả trứng, thuốc lá, một nhúm gạo bỏ tất cả vào thau
sau khi đã điểm nhang trên các vật ấy. Quan lấy gáo chọc thủng nắp thố
nước, múc 4 gáo đổ vào thau. Như vậy, là mở phủ xong, Quan trở lại chỗ
hầu, nghe văn, ban lộc và xa giá hồi loan. Các quan ở phủ khác cũng đều
làm giống như vậy. Sau khi quan thầy hầu mở xong 4 phủ tức là buổi lễ mở
phủ đã xong. Suốt trong buổi hầu đồng người ra trình đồng phải hì hục
khấn vái và quấn quít bên cạnh Quan thầy. Sau phần nghi lễ chính thức,
nhà đền bày tiệc thiết đãi linh đình. Có thể tiễn đàn ngay ngày hôm sau
hoặc để cách một hôm. Lễ tiễn đàn. Bà đồng trong cung hầu chuẩn bị sửa
soạn hầu tiễn, ở bên ngoài cung văn và thầy cúng nổi chiêng trống và đọc
sớ làm lễ tiễn Thổ công. Người ra đàn đi lễ tạ khắp các ban thờ. Các
mâm cỗ mặn được bầy cúng trước các ban thờ. Vẫn có gạo muối, trứng, chầu
cau, cháo để cúng chúng sinh ở cửa đền. Trước các đầu voi, ngựa, thuyền
đều có để bát nhang. Cúng xong bà đồng bắt đầu hầu tiễn. Buổi hầu tiễn
đồng này vẫn do quan thầy làm, cũng giống như buổi hầu mở phủ chứng đàn.
Khi về giá các Quan. Quan nào chịu tiễn đàn thì Quan sẽ chứng sớ và ra
lệnh cho hầu dâng cắm một thanh gươm và một cây cờ sau lưng. Tay trái
Quan cầm một góc khăn và chống nạnh, tay phải cầm một góc khăn và một bó
nhang to đốt cháy... Chiêng trống đổ dồn dập, mọi người vội vã bày hết
đồ mã ra xếp dọc hai bên của đền hướng về phía đường đi. Quan làm dấu
nhang trên tất cả cá đồ mã, khai quang điểm nhãn cho các hình nhân,
những bông vạn thọ được xé nát ra trộn vào gạo muối rải tiễn các đồ mã
và rải tiễn cả 4 phương. Quan cầm cờ múa quay và miệng hét “ há, há...”
quan rải rượu và cắm nhang lên hình nhân và đồ mã, ra lệnh cho mang tất
cả đi hóa....Bên ngoài các đồ mã được chuyển đi hóa, ở trong chiêng
trống đổ dồn, quan trở lại ngồi trước bệ hầu uống rượu, hút thuốc, nghe
văn, phát lộc và thăng. Buổi lễ ra đàn hay trình đồng như vậy là hoàn
tất.
Người ra đàn có thể hầu bóng ngay hôm đó. Bắt đầu từ đó họ chính thức trở thành một “ Đồng”.
Nước
ta chủ trương tự do tín ngưỡng, nhưng để trở thành một tôn giáo chính
thống thì phải có những tiêu chuẩn nhất định, có vị sáng lập, có lịch
sử, có tôn chỉ, có hệ thống tổ chức chứ không thể là một tổ hợp tự phát.
Đặc biệt, tôn giáo phải phát triển theo xu hướng tiến hóa của xã hội,
mang lại những lợi ích thiết thực cho quốc gia dân tộc, không phung phí
tiền tài của dân chúng. Phật dạy "Ta là chủ nhân của nghiệp, cúng là kẻ
thừa tự của nghiệp". Tư tưởng vĩ đại này đã nói lên tính nhân bản sâu
sắc, đưa chúng ta lên đỉnh cao của sự tự chủ.
Ban biên tập chùa Hiếu Quang (TP.Huế)
gh
Ý kiến của một nhà nghiên cứu văn hóa cổ và tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam:
Có
lẽ đây là quan điểm riêng của chư tăng chùa trên. Theo các nghiên cứu
của tôi và qua thực tế giao tiếp Tâm linh nhiều lần với một số vị Thần,
Thánh trong Đạo Mẫu để nghe các Ngài giảng dạy, sau khi các Ngài biết
được bài này của chùa Hiếu Quang thì Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai, người kiêm chi cả đạo Phật phán rằng:
Một người ở thế gian trần tục, dù là một vị sư nhưng không thể hiểu
được cõi Phật và cõi Thiên (nơi Mẫu và Thần, Thánh ngự) thế nào thì vị
sư đó chưa lãnh ngộ hết Phật pháp về cõi Thiên. Đức Chí Tôn có nói với
Ta (Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai)
một câu rằng: "chư tăng, chư khự, nhất Tâm chứ" tức là một vị sư đã tu
gần hết đời mà vẫn mơ màng ở hai cõi Phật và cõi Thiên thì sẽ gây ra mâu
thuẫn và hiểu sai về Đạo Mẫu. Vị sư này không biết rằng cõi Thiên là do
chính Đức Chí Tôn tạo ra!!!