Dẫn nhập:
Vào thập niên 70 thế kỷ trước, từ những phát hiện mới về văn hóa Đông Sơn, giới sử học Việt Nam đã đưa thời đại Hùng Vương từ truyền thuyết vào chính sử. Tuy nhiên, vì chưa đủ tự tin, các sử gia đã nương theo cổ thư Trung Hoa, bỏ niên đại truyền thuyết (2879 TCN) để cho rằng thời Hùng vương vào khoảng 1000 – 800 năm TCN. Mặt khác cũng chưa cho biết, nguồn gốc các vua Hùng từ đâu ra. Vì vậy, thời Hùng Vương vẫn gây hoài nghi, như nhận xét có phần mỉa mai của nhà sử học người Mỹ gốc Việt Tạ Chí Đại Trường trên tạp chí Xưa&nay số 378, tháng 4 năm 2011:
“Các biến động mới cùng sự thất bại không thú nhận của việc nối kết thành quả khảo cổ học với thời Hùng Vương ở miền Bắc, khiến cho vấn đề lại buông thả cho cảm tính, cho những khẩu hiệu chính trị cấp thời của sử học…”
Công bằng mà nói, hạn chế trên không chỉ thuộc riêng các nhà khoa học Việt Nam mà là giới hạn của tri thức nhân loại ở thế kỷ cũ. Ngay cả Meacham (1), của Hội Khảo cổ học Hồng Kông, trong công trình lớn về Bách Việt cũng chưa lý giải thỏa đáng vấn đề.
Chỉ sang thế kỷ XXI, nhờ công nghệ di truyền, nhiều vấn đề về tiền sử loài người dân dần được sáng tỏ.
Kết nối những tri thức di truyền học mới nhất về cội nguồn dân cư Đông Á với những tài liệu khảo cổ, cổ nhân và văn hóa học đã có, tôi đưa ra nhận định sau về gốc gác vua Hùng và niên đại thời Hùng Vương.
Từ truyền thuyết…
Dường như chúng ta ai cũng thuộc nằm lòng truyền thuyết Đế Minh phong vương chia đất cho con. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ, người con trưởng của Lạc Long Quân là Hùng vương lập nước Văn Lang, “phía bắc là Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, phía đông giáp biển Đông, nam giáp nước Hồ Tôn,” đóng đô ở Châu Phong.
Ngọc phả đền Hùng ghi: “Những người từ biển đổ bộ vào vùng Rào Rum, Ngàn Hống. Họ rất hiền lành nên được mọi người tiếp đón rồi bầu người tài giỏi nhất trong bọn họ làm vua, hiệu là Hùng vương, lúc đầu đóng đô ở Nghệ An, sau dời lên vùng Hạc Trắng.”
Một câu ca phổ biến trong dân gian Việt:
Vào thập niên 70 thế kỷ trước, từ những phát hiện mới về văn hóa Đông Sơn, giới sử học Việt Nam đã đưa thời đại Hùng Vương từ truyền thuyết vào chính sử. Tuy nhiên, vì chưa đủ tự tin, các sử gia đã nương theo cổ thư Trung Hoa, bỏ niên đại truyền thuyết (2879 TCN) để cho rằng thời Hùng vương vào khoảng 1000 – 800 năm TCN. Mặt khác cũng chưa cho biết, nguồn gốc các vua Hùng từ đâu ra. Vì vậy, thời Hùng Vương vẫn gây hoài nghi, như nhận xét có phần mỉa mai của nhà sử học người Mỹ gốc Việt Tạ Chí Đại Trường trên tạp chí Xưa&nay số 378, tháng 4 năm 2011:
“Các biến động mới cùng sự thất bại không thú nhận của việc nối kết thành quả khảo cổ học với thời Hùng Vương ở miền Bắc, khiến cho vấn đề lại buông thả cho cảm tính, cho những khẩu hiệu chính trị cấp thời của sử học…”
Công bằng mà nói, hạn chế trên không chỉ thuộc riêng các nhà khoa học Việt Nam mà là giới hạn của tri thức nhân loại ở thế kỷ cũ. Ngay cả Meacham (1), của Hội Khảo cổ học Hồng Kông, trong công trình lớn về Bách Việt cũng chưa lý giải thỏa đáng vấn đề.
Chỉ sang thế kỷ XXI, nhờ công nghệ di truyền, nhiều vấn đề về tiền sử loài người dân dần được sáng tỏ.
Kết nối những tri thức di truyền học mới nhất về cội nguồn dân cư Đông Á với những tài liệu khảo cổ, cổ nhân và văn hóa học đã có, tôi đưa ra nhận định sau về gốc gác vua Hùng và niên đại thời Hùng Vương.
Từ truyền thuyết…
Dường như chúng ta ai cũng thuộc nằm lòng truyền thuyết Đế Minh phong vương chia đất cho con. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ, người con trưởng của Lạc Long Quân là Hùng vương lập nước Văn Lang, “phía bắc là Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, phía đông giáp biển Đông, nam giáp nước Hồ Tôn,” đóng đô ở Châu Phong.
Ngọc phả đền Hùng ghi: “Những người từ biển đổ bộ vào vùng Rào Rum, Ngàn Hống. Họ rất hiền lành nên được mọi người tiếp đón rồi bầu người tài giỏi nhất trong bọn họ làm vua, hiệu là Hùng vương, lúc đầu đóng đô ở Nghệ An, sau dời lên vùng Hạc Trắng.”
Một câu ca phổ biến trong dân gian Việt:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong Nguồn chảy ra.
Truyền thuyết không phải là lịch sử nhưng là ký ức của cộng đồng dân cư về những sự kiện quan trọng xảy ra trong quá khứ. Như vậy, có dấu vết trong ký ức dân tộc cho thấy, cội nguồn người Việt gắn bó với đất Trung Hoa, từ Ngũ Lĩnh tới vùng Sơn Đông. Ký ức cũng ghi nhận có cuộc di cư bằng thuyền của tổ tiên chúng ta vào Nghệ An.
Tới khảo cổ…
Khảo sát sưu tập 76 sọ cổ phát hiện ở Việt Nam từ thời Đồ Đá tới thời Đồ Đồng, giới nhân chủng học xác nhận:
Thoạt kỳ thủy, trên đất nước ta có mặt hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid. Họ lai giống với nhau, cho ra bốn chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, đều thuộc nhóm loại hình Australoid.
Suốt thời kỳ Đồ Đá, từ di chỉ Sơn Vi 32000 năm trước, trên toàn Đông Nam Á không có người Mongoloid mà độc tôn nhóm loại hình Australoid.
Sang thời Đồ Đồng, người Australoid biến dần khỏi nước ta. Người Mongoloid xuất hiện và giữ vai trò chủ thể, không biết do nhập cư hay đồng hóa? (2)
Tại khu mộ cổ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình, khai quật đầu năm 2005, phát hiện 30 di hài của người Australoid và Mongoloid được chôn chung. Các nhà khảo cổ kết luận: “Cho tới 2.000 năm TCN, quá trình Mongoloid hóa dân cư Việt Nam hoàn thành.” (3)
Như vậy là, có sự xâm nhập của người Mongoloid vào Việt Nam. Họ từ đâu tới và vào thời gian nào? Cho đến nay chưa có câu trả lời thỏa đáng. Nhiều người đoán định là từ phương Bắc. Nhưng từ nơi chốn cụ thể nào còn là bí ẩn. Chính điều này dẫn tới ý tưởng: người Hán đồng hóa người Việt vào thời Bắc thuộc!
Di truyền học vào cuộc…
Ngày 19. 9. 1998, tờ Los Angeles Times đưa bản tin làm chấn động giới khoa học Mỹ: “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Nam Á tới Việt Nam khoảng 60.000 -70.000 năm trước. Sau đó họ đi lên Trung Quốc rồi vượt eo Berinh sang châu Mỹ.” (4)
Đó là những dòng trích từ Dự án Đa dạng di truyền người Trung Quốc, của nhóm 14 nhà nghiên cứu do Giáo sư Y. Chu, nhà di truyền học gốc Hoa của Đại học Texas, lãnh đạo, sau nhiều năm làm việc bằng số tiền 1.000.000 USD do Quỹ Phát triển Khoa học tự nhiên Trung Quốc tài trợ.
Cụ thể hơn, Giáo sư Y. Chu cho biết: “Tới Việt Nam, họ hòa huyết, tăng số lượng. Khoảng 50.000 năm trước, di cư tới châu Úc và các hải đảo Đông Nam Á. Khoảng 40.000 năm trước, khi khí hậu phía bắc thuận lợi hơn, họ đi lên Trung Quốc và 30.000 năm trước, vượt qua các cầu đất của eo Berinh, sang chiếm lĩnh châu Mỹ.” (5)
Một nghiên cứu khác của S.W. Ballinger cho thấy: “Người Mông Cổ cũng từ Đông Nam Á đi lên.” (6)
Từ thông tin này, có thể đoán rằng, ngoài những nhóm gặp gỡ, hòa huyết với người Australoid, còn có những nhóm nhỏ Mongoloid di cư riêng rẽ tới Tây Bắc Việt Nam rồi khi thời tiết ấm lên, đã theo đường Ba Thục tới sống ở Tây Bắc Trung Quốc, bảo tồn nguồn gen Mongoloid, sau này được gọi là chủng Mongoloid phương Bắc. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt chủng Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid) 40.000 năm tuổi trên đất Mông Cổ xác nhận điều này. Từ săn bắn hái lượm, khoảng 10.000 năm trước, khi băng hà tan, vùng Gô-bi thành đồng cỏ, họ chuyển sang du mục.
Nối kết những thông tin trên với tư liệu nhân chủng sẵn có, ta nhận thấy:
Người tiền sử từ châu Phi di cư tới Việt Nam 70.000 năm trước gồm hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Con số 70.000 năm là chắc chắn vì phát hiện bộ xương người Mongoloid ở Lưu Giang, Quảng Tây 68.000 tuổi.
Người Mongoloid và Australoid hòa huyết cho ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Về nguyên lý, chủng Indonesian phải là Mongoloid điển hình. Nhưng do số lượng Australoid áp đảo, sự hòa huyết giữa con cháu họ diễn ra tiếp tục sau đó khiến cho yếu tố Mongoloid lặn, còn Australoid trội, trở thành độc tôn suốt thời Đồ Đá. Do tỷ lệ máu Mongoloid cao trong chủng Indonesian nên khi đo sọ xảy ra lầm lẫn, cho là thuộc chủng Mongoloid. (7)
Do thời Đồ Đá ở Đông Nam Á, cả đất liền, hải đảo, lẫn châu Úc và tiểu lục địa Ấn Độ không có người Mongoloid nên có thể khẳng định, người Mongoloid chỉ có thể từ phía bắc xuống. Vấn đề là từ địa điểm cụ thể nào?
Khảo sát bản đồ dân cư Đông Á cổ đại, ta thấy, ngoài chủng Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sống ở Tây Bắc Trung Quốc và đất Mông Cổ, còn có hai địa điểm xuất hiện chủng Mông Cổ phương Nam (South Mongoloid) khoảng 5.000 năm TCN là ở di chỉ Ngưỡng Thiều, huyện Thằng Trì tỉnh Hà Nam và Hà Mẫu Độ vùng cửa sông Chiết Giang.
Câu hỏi tiếp: trong bối cảnh toàn bộ vùng Đông Á độc tôn chủng Australoid thì hai khối dân cư khác chủng này từ đâu ra?
Giả định sự hình thành hai khối dân cư này như sau:
Ngưỡng Thiều, vùng hoàng thổ nam sông Hoàng Hà, có người Việt sinh sống từ rất sớm. Tại di chỉ Bán Pha 2 gần Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, người ta tìm thấy bình gốm 12.000 năm tuổi, có khắc chữ cổ, gần về tự dạng với chữ trên giáp cốt đời nhà Thương. Rất có thể từ thời này, tổ tiên chúng ta đã đưa cây kê lên trồng ở đây.
Mùa khô, một bộ phận dân du mục Mông Cổ tập trung về bờ bắc Hoàng Hà chăn thả gia súc. Như bản tính dân du mục, họ thường xuyên vượt sông cướp phá dân Việt phía nam. Cố nhiên sự hiếp tróc xảy ra và những đứa trẻ lai Mông-Việt ra đời. Qua hàng ngàn năm như thế, số lượng người lai tăng lên và khoảng 5.000 năm TCN chiếm ưu thế trong dân cư Ngưỡng Thiều. (6)
Ở Hà Mẫu Độ có thể điễn ra tình hình sau: khoảng 40.000 năm trước, có những nhóm riêng lẻ Mongoloid, từ Việt Nam theo ven biển đi tới vùng cửa sông Dương Tử (8) rồi dừng lại, sống biệt lập thời gian dài bằng săn bắn, hái lượm mà nghề quan trọng là đánh cá. Khoảng 5000 năm TCN, người Việt Indonesian (Lạc Việt) mở rộng cư trú ra vùng này, đem nghề nông tới. Họ gặp người Mongoloid bản thổ, hòa huyết, cho ra lớp người Mongolod phương Nam. Cũng như trên vùng Ngưỡng Thiều, nhân số người lai Mongoloid phương Nam tăng lên, trở thành chủ nhân văn hóa Hà Mẫu Độ.
Truyền thuyết cũng như chính sử Trung Quốc ghi nhận, khoảng 2600 năm TCN, họ Hiên Viên thống lĩnh các bộ lạc du mục Mông Cổ tấn công liên quân Việt của Đế Lai và Lạc Long Quân ở Trác Lộc trên sông Hoàng Hà. Lãnh tụ quân Việt Đế Lai (Si Vưu) tử trận, quân du mục tràn vào chiếm vùng hoàng thổ, tôn Hiên Viên làm Hoàng đế với nghĩa vua của vùng hoàng thổ.
Nối kết sự kiện này với những tư liệu hiện có, ta hình dung kịch bản sau:
Việc xâm lăng của quân du mục diễn ra dai dẳng hàng nghìn năm. Quân Việt thường xuyên đánh trả, ngăn bước kẻ xâm lược. Trác Lộc là trận lớn, mang tính chiến lược quyết định. Sự bại trận của dân nông nghiệp như là hệ quả tất yếu của cuộc sống. Nhận thức được điều này, Lạc Long Quân, trị vì nước Xích Quỷ, chuẩn bị phương án chiến lược là chuyển về hậu phương phía nam lập kế lâu dài. Vì vậy, sau khi Đế Lai hy sinh, ông và bộ phận tinh hoa của quân dân Việt lên thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển rồi theo gió mùa đông bắc xuống phía nam, đổ bộ vào vùng Nghệ An. Do cùng nòi giống và tiếng nói – có lẽ là ngôn ngữ Môn-Khmer như khoa học xác định sau này, đoàn thuyền nhân của Lạc Long Quân được người bản địa tiếp nhận, như được ghi trong Ngọc phả Đền Hùng.
Trong đoàn quân của Lạc Long Quân có người Mongoloid phương Nam. Tại Việt Nam, họ hòa huyết với người Australoid địa phương, sinh ra lớp người Mongoloid phương Nam mới. Việc lai giống xảy ra như phản ứng dây chuyền, khiến cho số lượng người Mongoloid phương Nam tăng lên. Về mặt di truyền học, ta biết rằng, người Indonesian, chủng đa số trong dân cư Việt (Lạc Việt), vốn có tỷ lệ máu Mongoloid cao. Sau nhiều năm bị lặn dưới ưu thế của yếu tố Australoid, nay được bổ sung, dù chỉ lượng không nhiều gen Mongoloid, cũng làm cuộc lội ngược dòng, dẫn tới sự trội của gen Mongoloid. Vì vậy, sự chuyển hóa sang Mongoloid trở nên dễ dàng.
Một vấn đề được đặt ra: người Mongoloid phương Nam này là người Ngưỡng Thiều hay Hà Mẫu Độ? Trong một vài bài viết trước, tôi cho là người Ngưỡng Thiều. Nhưng sau khi tham khảo nhiều nghiên cứu di truyền học về sự hình thành người Austranesian, cho thấy, đó chính là người Hà Mẫu Độ (9). Người Hà Mẫu Độ là chủ nhân của nền nông nghiệp lúa nước phát triển cao, đồng thời cũng là những tay đi biển cừ khôi, tham gia mạng lưới buôn bán ngọc quanh Biển Đông, tới Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Mã Lai, Indonesia khoảng 5.000 năm trước (10). Khoảng thời gian này, họ di cư theo bờ biển xuống Việt Nam rồi tới Mã Lai, Indonesia. Việc phát hiện văn hóa kiểu Hà Mẫu Độ ở Philippine ủng hộ những khám phá di truyền học, khẳng định có sự di cư này (11).
Hà Mẫu Độ thuộc địa bàn nước Xích Quỷ của Lạc Long Quân. Người Hà Mẫu Độ vốn là dân đi biển giỏi, sẽ giữ vai trò chủ lực trong hạm đội của liên quân Việt. Vì vậy, việc họ có mặt trong đoàn di dân của Lạc Long Quân là điều dễ hiểu. Nhiều tài liệu di truyền học cho thấy khoảng 5000 năm trước đã có sự di cư của người Hà Mẫu Độ xuống phía nam. Cuộc xâm lăng của Hiên Viên đẩy nhanh quá trình này.
Những phân tích trên cho thấy, lịch sử tộc Việt có hai thời kỳ:
- Thời kỳ đầu, khoảng 40.000 năm trước, người Việt cổ Australoid từ đất Việt đi lên khai phá Trung Hoa.
- Thời kỳ sau, khoảng 2.600 năm TCN, người Việt từ lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử trở về Việt Nam dựng nước Văn Lang. Người trở về mang theo nguồn gen Mongoloid phương Nam, làm chuyển hóa đại bộ phận dân cư Việt Nam thành người Việt hiện đại. Do vậy, có thể kết luận là,
“người trở về đã chuyển hóa di truyền dân cư Việt mà không phải là sự đồng hóa.”
Sự kiện này phù hợp với câu ca Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong Nguồn chảy ra. Khi trở về Việt Nam, tổ tiên của chúng ta ghi nhớ nơi phát tích trực tiếp là Núi Thái, sông Nguồn vùng Sơn Đông nên đặt thành câu ca truyền đời cho con cháu. Cũng như truyền thuyết, câu ca mang vẻ bí ẩn. Nhưng về mặt tâm linh, một số người trong chúng ta cảm nhận rằng, núi ấy, sông ấy có gì đó gắn bó với tổ tiên mình. Nay tôi đoán rằng, do sống quá lâu, khoảng 40.000 năm trên đất Bắc, tổ tiên trực tiếp của chúng ta Kinh Dương vương, Lạc Long Quân chỉ biết tới Phục Hy, Thần Nông vùng Thái Sơn mà không biết tới gốc gác xa hơn. Nay, trong điều kiện mới của trí tuệ nhân loại, ta khám phá ra dòng chảy liên tục của lịch sử nòi giống Việt, bắt đầu từ 70.000 năm trước…
Kết luận
Có thể nhận định như sau:
- Vua Hùng là người Việt cư trú ở vùng Sơn Đông, nơi có Núi Thái, Sông Nguồn, một trong bốn trung tâm của người Việt trên địa bàn Trung Hoa cổ.
- Vua Hùng về Việt Nam và lên ngôi khoảng 2.600 năm TCN, tương đương với thời điểm họ Hiên Viên lập vương triều Hoàng đế. Niên đại này không xa với niên đại năm Nhâm Tuất 2879 trong truyền thuyết, là năm Kinh Dương Vương lên ngôi. Điều này cho thấy, truyền thuyết gần với sự thật lịch sử.
Phân trích trên chứng tỏ, từ Sơn Vi qua Hòa Bình, Phùng Nguyên, dân cư trên đất Việt Nam là người Việt cổ, thuộc nhóm loại hình Australoid. Sang thời Đồ Đồng, dân cư Việt Nam là người Việt hiện đại, chủng Mongoloid phương Nam. Sự chuyển hóa này do người Việt chủng Mongoloid phương Nam từ vùng Ngũ Lĩnh di cư xuống, hòa huyết với người tại chỗ trong thời gian lâu dài. Hoàn toàn không có chuyện người Mongoloid nhập cư lớn, chiếm đất, tiêu diệt, xua đuổi người bản địa Nguyên Đông Dương như có ý kiến đề xuất trước đây.
Như vậy, cả về dân cư, cả về văn hóa trên đất Việt Nam là liên tục hơn 30.000 năm qua. Điều này cũng chứng tỏ, không hề có chuyện người Việt bị Hán hóa trong thời kỳ Bắc thuộc. Sự thật là, hơn 2.000 năm, trước khi quân của Lộ Bác Đức tiến vào Nam Việt, người Việt và người Hoa Hạ đã cùng chủng Mongoloid phương Nam.
Hà Văn Thùy _tháng Tư năm 2011
http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=2978&Itemid=99999999
Tài liệu tham khảo:
1. William Meacham. Defining the Hundred Yue. Hong Kong Archaeological Society.
2. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á, Hà Nội, 1983
3. Rosslyn Beeby. Research, Conservation and Science Reporter. The Canberra Times, 10 Feb. 2005,
http://www.iol.co.za/index.php?set_id=1&click_id=588&art_id=qw1108019521878B213
4.Jin Li. Los Angeles Times 29.9.1998.
5 Chu, J. Y. et al, Genetic relationship of populations in China, Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768 (1998).
6. S. W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid
migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45
7. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. Văn học, 2008
8. Stephen Oppenheimer - Out of Eden Peopling on the World http://www.bradshawfoundation.com/journey/introduction.html
9. Wilhelm G. Solheim II, The Nusantao hypothesis: The origins and spread of Austronesia speakers, Asian Perspective
XXVI, 1984-1985, pp. 77-78.
10. Wilhelm G. Solheim II, Taiwan, Coastal South China, and Northern Vietnam and The Nusantao Maritime Trading
Network, Journal of East Asian Archeology, JEAA, Vol. 2, No. 1-2, 2000, pp. 273-284.
11. Stephen Oppenheimer, The ‘Express Train from Taiwan to Polynesia’: on the congruence of proxy lines of evidence,
World Archaeology Vol. 36(4): 591 – 600 Debates in World Archaeology, 2004.
http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=2978&Itemid=99999999
Tài liệu tham khảo:
1. William Meacham. Defining the Hundred Yue. Hong Kong Archaeological Society.
2. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á, Hà Nội, 1983
3. Rosslyn Beeby. Research, Conservation and Science Reporter. The Canberra Times, 10 Feb. 2005,
http://www.iol.co.za/index.php?set_id=1&click_id=588&art_id=qw1108019521878B213
4.Jin Li. Los Angeles Times 29.9.1998.
5 Chu, J. Y. et al, Genetic relationship of populations in China, Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768 (1998).
6. S. W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid
migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45
7. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. Văn học, 2008
8. Stephen Oppenheimer - Out of Eden Peopling on the World http://www.bradshawfoundation.com/journey/introduction.html
9. Wilhelm G. Solheim II, The Nusantao hypothesis: The origins and spread of Austronesia speakers, Asian Perspective
XXVI, 1984-1985, pp. 77-78.
10. Wilhelm G. Solheim II, Taiwan, Coastal South China, and Northern Vietnam and The Nusantao Maritime Trading
Network, Journal of East Asian Archeology, JEAA, Vol. 2, No. 1-2, 2000, pp. 273-284.
11. Stephen Oppenheimer, The ‘Express Train from Taiwan to Polynesia’: on the congruence of proxy lines of evidence,
World Archaeology Vol. 36(4): 591 – 600 Debates in World Archaeology, 2004.